Cơ hội
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Việt Nam có thế mạnh về điều kiện tự nhiên để nuôi trồng thủy sản, với hàng triệu ha mặt nước (ngọt, lợ, mặn), nguồn lợi thủy sản đa dạng, phong phú. Có nhiều đối tượng nuôi, nhiều mô hình nuôi. Việt Nam có thể cung cấp khối lượng lớn thủy sản an toàn, chất lượng ổn định nhờ nguồn cung dồi dào với tiềm năng của 21 tỉnh ven biển, hơn 847 nhà máy chế biến quy mô công nghiệp đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phần lớn các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu là tư nhân và có thể chủ động đầu tư phát triển bền vững (cả về số lượng và chất lượng) để duy trì sức cạnh tranh quốc tế cho doanh nghiệp và ngành thủy sản. Chất lượng sản phẩm thủy sản Việt Nam được thế giới công nhận: đáp ứng các quy định về chất lượng, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường và truy xuất nguồn gốc của các nước. Cùng với đó, Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến an toàn thực phẩm, trách nhiệm xã hội và môi trường. Các nhà máy chế biến đều áp dụng HACCP. Ngày càng nhiều vùng nuôi, nhà máy chế biến đạt các chứng nhận bền vững như ASC, GLOBALGAP, BAP hay VietGAP... Công nghệ chế biến phát triển có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Tận dụng lợi thế từ các ưu đãi thuế nhập khẩu tại nhiều thị trường (nhờ các hiệp định thương mại tự do – FTA). Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 17 FTA với các nước thành viên chiếm 95% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, trong đó có 16 FTA đã được ký kết (chiếm 90% tổng kim ngạch xuất khẩu). Ngoài ra, còn có cơ hội từ việc ứng dụng các kỹ thuật, công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị của các sản phẩm thủy sản. Bên cạnh đó, Việt Nam lại có nguồn nhân lực thuận lợi cho sự phát triển của ngành thủy sản. Các cơ sở chế biến đáp ứng được yêu cầu chất lượng cao, giàu kinh nghiệm chế biến và xuất khẩu thủy sản sang các thị trường có quy định khắt khe nhất.
Lợi thế về sản phẩm giá trị gia tăng giúp duy trì và mở rộng đối tác tại nhiều thị trường như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc. Đối với những thách thức như bất ổn chính trị, lạm phát, chiến tranh thương mại và khủng hoảng năng lượng trên thế giới, Việt Nam sẽ chuyển hóa thành cơ hội để ngành thủy sản thích nghi, mở rộng thị phần tại một số thị trường với sản phẩm đa dạng hơn.
Thách thức
Biến đổi khí hậu và suy giảm nguồn lợi tự nhiên, tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh, giảm năng suất và chất lượng nguyên liệu thủy sản. Cùng với chi phí sản xuất tăng cao. Giá thức ăn chăn nuôi, nhiên liệu và chi phí vận chuyển dự kiến sẽ tiếp tục tăng do biến động kinh tế toàn cầu và phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ cũng khiến cho chi phí và giá thành sản xuất, giá bán tăng, khó cạnh tranh.
Đối với các yêu cầu về phát triển bền vững và kinh tế tuần hoàn, VASEP nhận định: Xu hướng tiêu dùng toàn cầu đang chuyển sang các sản phẩm "xanh" và bền vững, đòi hỏi ngành Thủy sản Việt Nam phải đầu tư công nghệ hiện đại, giảm thiểu tác động môi trường và tập trung nghiên cứu, phát triển các sản phẩm từ phụ phẩm. Điều này đòi hỏi nguồn vốn lớn và sự thay đổi trong mô hình sản xuất của doanh nghiệp.
Về những rào cản thương mại và quy định thị trường, nhìn chung, các thị trường lớn ngày càng áp dụng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về chất lượng, an toàn thực phẩm, và bền vững môi trường (ví dụ: quy định IUU, SIMP, MMPA). Ngoài ra, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp từ Mỹ và các biện pháp bảo hộ thương mại khác có thể hạn chế khả năng tiếp cận thị trường. Đặc biệt, chương trình thuế quan mới của Mỹ nhiều biến động, ảnh hưởng đến giao thương thủy sản với Mỹ và các thị trường khác, nhất là Trung Quốc.
Biến động địa chính trị và chuỗi cung ứng có thể làm xáo trộn các dòng chảy thương mại giữa các thị trường, gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, tăng chi phí logistics và ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu thủy sản của Việt Nam. Cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Các quốc gia như Ấn Độ, Ecuador, Thái Lan và Trung Quốc đang không ngừng nâng cao sản lượng và chất lượng thủy sản xuất khẩu. Điều này tạo áp lực lớn về giá cả và thị phần cho Việt Nam (nhất là tại các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN). Trong khi đó, ngành Thủy sản Việt Nam đang thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao.
Giải pháp
Tại thời điểm này, theo VASEP, muốn đẩy mạnh ngành hàng thủy sản, rất cần những động lực phát triển mới. Cách tiếp cận sẽ là: Vươn ra thế giới, tăng cường hội nhập với sức mạnh nội sinh; Giải quyết các điểm nghẽn; Ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ và chuyển đổi số; Giải phóng sức mạnh trí tuệ.
Đứng trước bối cảnh thế giới quá nhiều biến động, thay đổi nhanh trong kỷ nguyên số, xuất khẩu thủy sản Việt Nam cần có động lực tăng trưởng mới. Dự báo tăng trưởng tiêu thụ thủy sản toàn cầu chỉ đạt mức 5-6%/năm trong khi ngành Thủy sản Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 2 con số trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu này, ngành sẽ không chỉ cố gắng giữ vững thị phần, tăng hàm lượng chế biến GTGT mà cần nghiên cứu để có một mô hình tăng trưởng mới phù hợp.
Tạo động lực cho nông-ngư dân nuôi trồng và khai thác thủy sản
Từ góc nhìn của Hiệp hội, đây là vấn đề cốt lõi quan trọng. Nguyên liệu cho xuất khẩu và tiêu dùng là vấn đề sống còn, và là tiền đề cho tăng trưởng. Nông-ngư dân là lực lượng lớn tham gia trong ngành, nhưng không ít trong số đó vẫn còn khó khăn, còn những bất cập khác nhau. Làm sao để ngư dân, bên cạnh việc tuân thủ các quy định pháp luật, có động lực để tăng cường khai thác biển, tái đầu tư để vươn khơi xa.
Giải pháp là chợ đấu giá (để bán được giá tốt nhất cho ngư dân) và tập trung được dữ liệu truy xuất nguồn gốc; Xem xét khơi thông xuất khẩu được con ruốc (không cần S/C, C/C) sang thị trường EU vì khai thác ruốc chỉ dùng thuyền thúng và gần bờ, tạo thuận lợi cho đời sống ngư dân; Có chiến lược xây dựng mô hình các Tập đoàn/doanh nghiệp lớn về khai thác biển để hợp tác khai thác với các quốc gia có biển –không chỉ mở rộng phạm vi hoạt động mà còn tạo động lực mới cho ngư dân khai thác biển, cho nguồn nguyên liệu dồi dào bền vững hơn.
Để các hộ nuôi trồng thủy sản có động lực mới, đầu tư và tăng cường hoạt động nuôi trồng (cả trên đất liền và trên biển), giải pháp trước mắt là tập trung vào vấn đề giống thủy sản: kiểm tra chặt hơn việc lưu thông, tiêu thụ tôm giống kém chất lượng; còn với giống cá tra cần phải có quy hoạch cho phát triển giống và có cơ chế ưu tiên cho người sản xuất giống, thu hút các bên tham gia. Các tỉnh cần ưu tiên sử dụng các quỹ đất/mặt nước cho nuôi trồng thủy sản. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới, chuyển đổi số và có quy chế ràng buộc các chủ thể tham gia ngành Thủy sản phải quan tâm và có giải pháp kiểm soát, hạn chế và giảm thiểu phát thải khí nhà kính để ngành Thủy sản phát triển ổn định, bền vững.
Tạo động lực cho doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản
Trong thời gian qua, Chính phủ, Bộ Ngoại giao và Bộ Công Thương đã tập trung các hoạt động ngoại giao, kinh tế, đàm phán song phương và xúc tiến thương mại có mục tiêu tại các thị trường quan trọng để khơi thông lợi thế cho thủy sản Việt Nam.
Nhờ đó, thị trường Nhật Bản đứng đầu về nhập khẩu tôm Việt Nam năm 2024. Đối với Hàn Quốc, thúc đẩy việc đàm phán để bãi bỏ hạn ngạch đối với tôm Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc trong khuôn khổ Hiệp định VKFTA nhằm điều chỉnh thuế suất về 0% cho tôm Việt Nam. Cùng với đó, thúc đẩy các hoạt động mở rộng thị phần tại khu vực các nước Trung đông và Halal; Tổ chức Ngày Thủy sản Việt Nam (Vietnam Seafood day) trong khối ASEAN. Duy trì tốt các chương trình xúc tiến thương mại (Hội chợ Thủy sản Bắc Mỹ, Triển lãm Thủy sản Toàn cầu tại Barcelona; Hội chợ Thủy sản Châu Á, Hội chợ Thủy sản và Nghề cá Trung Quốc, Hội chợ Thủy sản và Nghề cá Hàn Quốc), mở rộng tìm kiếm thị trường thay thế.
Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước tiếp tục đẩy mạnh việc cải thiện môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các thủ tục hành chính. Sớm đưa vào quy phạm pháp luật nội dung xác nhận sản phẩm thủy sản là sản phẩm có “hoạt động chế biến” để hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp; Giải quyết vướng mắc về thủ tục hoàn thuế giá trị giá tăng đối với các dự án đầu tư mở rộng, dự án mới có phát sinh doanh thu; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục chỉ đạo ưu đãi lãi vay USD dưới 4% cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các thủ tục hành chính. Đẩy mạnh việc ứng dụng chuyển đổi số để áp dụng triệt để trong các quy trình/thủ tục hành chính về xuất khẩu, nhập khẩu thủy sản; tránh việc áp dụng song song “số” và “giấy”; Không yêu cầu doanh nghiệp cung cấp các giấy tờ/hồ sơ thuộc thủ tục hành chính khác, với cơ quan nhà nước khác ngoại phạm vi quy định; Xem xét bãi bỏ việc kiểm tra doanh nghiệp dê, cừu, ngựa trong sản phẩm bột cá; tiếp tục xem xét theo nguyên tắc quản lý rủi ro để có hướng dẫn cho việc kiểm tra chuyển đổi mục đích sử dụng nguyên liệu thủy sản; tiếp tục rà soát cải thiện quy trình/thủ tục việc cấp giấy S/C, C/C để giải quyết các bất cập phát sinh; Phối hợp Bộ Y tế để có quy định dư lượng kháng sinh bán cho thị trường nội địa ngang bằng chỉ tiêu quy định của thị trường EU.
Ngọc Thúy - FICen